Skip to main content

Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 6): Bí ẩn về thân thế thực sự của Đường Tăng

"Văn dĩ tải Đạo", người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của "Tây Du Ký" luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.

  • Kỳ 1 , Kỳ 2 , Kỳ 3 , Kỳ 4 , Kỳ 5

Tây Du Ký kể rằng, Đường Tăng vốn là Kim Thiền Tử, là đệ tử thứ hai của Đức Phật Thích Ca. Chỉ vì khinh mạn Phật Pháp mà bị giáng xuống trần thế, phải qua mười kiếp tu hành, trên đường thỉnh kinh lại trải qua ma nạn trùng trùng, cuối cùng mới có thể chứng đắc Phật quả.

Nhưng trong lịch sử, đệ tử thứ hai của Đức Phật Thích Ca lại là Mục Kiền Liên, hơn nữa trong số các đệ tử còn lại cũng không có ai tên là Kim Thiền Tử. Vậy dám hỏi Kim Thiền Tử là ai?

Nếu Đường Tăng là Kim Thiền Tử chuyển sinh, vậy Kim Thiền Tử là ai? (Ảnh: thegioidienanh.vn)

Chúng ta biết, Tây Du Ký bao gồm cả các nhân vật huyền thoại (như Lão Quân, Ngọc Hoàng, Tây Vương Mẫu, các chư Phật và Bồ Tát) và các nhân vật lịch sử (như Đường Thái Tông và các danh tướng nhà Đường). Dẫu là nhân vật huyền thoại hay lịch sử, thì câu chuyện về họ đều hết sức rõ ràng, ít nhiều có thể tra lại trong các thư tịch cổ.

Ngay cả Ngộ Không, Bát Giới, và Sa Tăng cũng không phải hoàn toàn là hư cấu của tác giả, mà đều bắt nguồn từ các truyền thuyết trong dân gian. Nhưng riêng câu chuyện về tiền kiếp của Đường Tăng lại là hư cấu, thậm chí còn mâu thuẫn với lịch sử — Phải chăng Ngô Thừa Ân muốn nói với chúng ta rằng: Cái tên "Kim Thiền Tử" (金蟬子) chỉ là một ngụ ý của tác giả?

Trong tiếng Hán, "Kim Thiền" nghĩa là con ve sầu, mượn ý trong "Kim thiền thoát xác" (ve sầu lột xác). Không ít lần Ngô Thừa Ân mượn lời thơ để tiết lộ ý nghĩa của cái tên này:

Hồi thứ 12:

"Rằng năm Trinh Quán mười ba,
Nhà vua hội họp sư về giảng kinh (…)
Chùa xây ơn sắc chỉ vua,
Kim Thiền lột xác tìm về Tây phương.  [1]

Hồi thứ 15:

"Phật thuyết Tam Tạng chân kinh,
Bồ Tát khuyến thiện dân sinh khắp vùng (…)
Kim Thiền thoát xác muốn xong,
Thì Huyền Trang phải dốc công tu hành".  [2]

Vậy thì, Ngô Thừa Ân muốn nói với chúng ta điều gì qua hình ảnh "kim thiền thoát xác" này?

Nhục thân chỉ là chiếc áo, nguyên thần mới là sinh mệnh chân chính của con người

Phật gia giảng rằng, bản mệnh chân chính của con người là nguyên thần, sinh ra trong không gian vũ trụ. Bởi sinh mệnh lúc ban sơ là thánh khiết, họ phù hợp với đặc tính của vũ trụ nên mới có thể ở trên tầng cao kia. Nhưng rồi qua tháng năm đằng đẵng, một số mang theo những thứ chấp trước và dục vọng khiến thân thể trở nên nặng nề, cuối cùng rớt xuống nơi thế gian ô trọc này. Cũng tại đây nguyên thần bị phong tỏa vào thứ thân xác thịt thấp kém.

Vì có nhục thân, họ không thể phiêu đãng bay lên, cũng không thể hiển thị những thần thông lớn. Vì có nhục thân, họ mới biết thế nào là sinh-lão-bệnh-tử, thế nào là khổ, thế nào là đói bụng, khát nước, nóng lạnh, tê buốt, đau đớn, mệt mỏi, rã rời… Cũng vì có nhục thân, họ mới bị kìm hãm trong các thứ dục vọng và truy cầu về danh, tình, lợi, truy cầu địa vị, quyền thế, truy cầu được sống lâu trăm tuổi, trẻ mãi không già. Và cũng vì có nhục thân, họ mới có thể làm "người", mới được gọi là "con người".

Lại nói, nhục thân chỉ giống như một chiếc áo, nhưng lại có thể ức chế và giam hãm nguyên thần. Ví như mặc chiếc áo "động vật" sẽ phải làm kiếp con vật, mặc chiếc áo "con người" sẽ được làm người… Trong truyện kể rằng, Bát Giới vốn là Thiên Bồng Nguyên Soái chỉ huy hơn 8 vạn thủy binh ở Thiên Hà. Một vị thần oai phong lẫm liệt như thế, nhưng khi đày xuống hạ giới, vì lầm đường rơi vào chuồng heo mà phải mang thân lợn.

Còn Sa Tăng là Quyển Liêm đại tướng trông coi xe loan ở điện Linh Tiêu, cũng vô cùng thần thánh, đến khi bị đày xuống sông Lưu Sa mới mang thân hình gớm ghiếc của yêu quái. Không thể nói rằng Bát Giới là "lợn" hay Sa Tăng là "yêu quái", bởi vì nhục thân của họ chỉ là chiếc áo ấy thôi, còn nguyên thần mới là bản mệnh chân chính của mỗi người.

Không thể nói rằng Bát Giới là "lợn" hay Sa Tăng là "yêu quái", bởi vì nhục thân của họ chỉ là chiếc áo ấy thôi, còn nguyên thần mới là bản mệnh chân chính của mỗi người. (Ảnh: youtube.com)

Nhục thân thấp kém, nhưng có nhục thân mới có thể tu hành

Trong Bát Tiên truyền kỳ, vị tiên đứng đầu là Lý Thiết Quải, có thân hình của một ông lão già nua xấu xí với một bên chân khập khiễng. Đã là tiên, vì sao lại có vẻ ngoài khổ sở như vậy? Kể rằng, ông tên thật là Lý Huyền, vốn là một đạo sĩ khôi ngô tuấn tú. Khi chưa hoàn toàn viên mãn, ông đã có thể nguyên thần ly thể, ngao du sơn thủy.

Một ngày, Lý Huyền muốn cùng Thái Thượng Lão Quân đến Hóa Sơn, trước khi đi ông căn dặn đệ tử phải canh giữ xác ông trong 7 ngày, nếu sau 7 ngày mà nguyên thần không về thì hãy thiêu xác. Đến trưa ngày thứ 7, mặc dù nguyên thần của sư phụ chưa về, nhưng người đệ tử vì gấp gáp về nhà lo việc hiếu nên đã mang xác đi thiêu.

Khi Lý Huyền trở về không tìm thấy xác, ông đành phải bay đi tìm một thân xác mới, thấy trong rừng có người ăn mày vừa chết vì đói, ông bèn nhập vào và hoàn dương. Bởi người ăn mày xấu xí, lại thêm cái chân khập khiễng phải chống gậy, nên từ đó Lý Huyền mới có tên là "Thiết Quải", nghĩa là 'gậy sắt'.

Câu chuyện trên đã nói rõ một vấn đề: Nguyên thần nếu muốn thăng hoa tầng thứ, thì phải ở nơi cõi người, mang cái nhục thân này mà tu luyện. Nếu hỏi: Kim Thiền Tử vì sao không thể tu luyện ở nơi Phật quốc, mà cứ phải xuống trần làm chi? Đó là bởi có thân người mới có thể tu hành.

"Kim Thiền" thoát xác thăng thiên, ấy là lúc viên mãn trở về

Có thể ví von rằng, nguyên thần bị kìm hãm trong nhục thân cũng giống như viên kim cương mắc kẹt trong bùn lầy. Dẫu rơi vào bùn lầy thì kim cương vẫn mãi là kim cương, nó vẫn thánh khiết như thế, vẫn quý giá như thế, nhưng lại không thể lấp lánh sáng ngời được nữa, vì đã bị bùn kia che lấp mất rồi. Cho nên nói, con người là trân quý, là anh linh của vạn vật, bởi chỉ con người mới có thể tu luyện, tẩy sạch bùn nhơ, như viên kim cương sáng lòa thần thánh.

Người bình thường sau trăm tuổi lâm chung, nguyên thần của họ vẫn tiếp tục trầm luân trong bể khổ luân hồi. Tùy theo nghiệp lực và các loại duyên nợ, họ sẽ phải chuyển sinh, vừa rời khỏi chiếc áo này lại phải khoác lên mình chiếc áo nhục thân mới. Nói một cách hình tượng thì, viên kim cương kia chỉ đang di chuyển từ vũng bùn này sang một vũng bùn khác, chứ chưa thể siêu xuất ra ngoài.

Như trên đã nói, thân nhẹ thì thăng lên, thân nặng nề thì rớt xuống dưới. Nguyên thần của người thường vì trĩu nặng nghiệp lực và các loại dục vọng nên cứ mãi trầm luân nơi trần thế. Nhưng một người tu luyện thì khác, họ sẽ không ngừng tẩy tịnh thân tâm, đề cao tầng thứ, khi đạt đến cảnh giới viên mãn đắc Đạo thì cũng là lúc trút khỏi xác phàm mà thăng hoa. Phải chăng đây chính là ý nghĩa của "Kim thiền thoát xác", cũng chính là ngụ ý của cái tên "Kim Thiền Tử" của Đường Tăng?

Đường Tăng phải đạt đến cảnh giới viên mãn đắc Đạo, trút khỏi xác phàm mới có thể đi mây về gió, đại hiển thần thông (Ảnh: ĐKN)

Đoạn cuối Tây Du Ký kể rằng, khi đến Linh Sơn, Đường Tăng phải tắm gội ở am Ngọc Chân để tẩy sạch bụi trần, rồi qua bến đò Lăng Vân lại phải thoát thai hoán cốt, rũ bỏ xác phàm mới có thể mang cái thân thuần tịnh mà đi gặp Như Lai Phật Tổ. Trong truyện viết:

"Tôn Đại Thánh chắp tay đa tạ, nói: 'Xin cảm ơn tấm lòng tốt đón tiếp sư phụ tôi. Xin mời sư phụ lên đò nào. Chiếc thuyền này tuy không đáy nhưng vững vàng lắm, nhỡ có sóng to gió cả cũng chẳng lật được'.

Tam Tạng bấy giờ vẫn chưa yên tâm, Hành Giả đứng khoanh tay trước ngực, bất ngờ ẩy mạnh một cái, Tam Tạng đứng không vững, rơi đánh ào một cái xuống nước. Tiếp Dẫn Phật Tổ nhanh tay đỡ lấy, dắt xuống đò. Tam Tạng vừa phủi quần áo, vừa giậm chân oán trách Hành Giả. Hành Giả dắt luôn cả Sa Tăng, Bát Giới dắt ngựa gánh đồ xuống đò. Thầy trò đứng cả ở đằng mũi đò. Phật Tổ nhẹ nhàng ẩy con đò ra. Bỗng thấy phía thượng lưu một xác người trôi xuống. Tam Tạng sợ hãi luống cuống.

Hành Giả cười nói: 'Sư phụ đừng sợ. Xác đó là sư phụ đấy'.

Bát Giới cũng nói: 'Đúng sư phụ rồi! Đúng sư phụ rồi!'.

Sa Tăng vỗ tay nói: 'Đúng sư phụ rồi! Đúng sư phụ rồi!'.

Tiếp Dẫn Phật Tổ giơ tay làm hiệu nói: 'Đúng là ngài! Xin chúc mừng! Xin chúc mừng!'.

Ba người cùng đồng thanh họa theo lời Phật tổ. Con đò được chèo đi, trong chớp mắt đã vững vàng rời khỏi bến tiên Lăng Vân sang tới bờ bên kia. Tam Tạng quay người nhẹ nhàng bước lên bờ.

Có bài thơ làm chứng rằng:

"Thoát rồi xương cốt trần gian,
Tương thân tương ái vượt sang Niết Bàn.
Viên mãn thành Phật thỏa lòng,
Từ nay rửa sạch bụi trần lâng lâng".

(Ảnh: Youtube)

Cũng là nói, nhục thân chỉ là chiếc áo tạm bợ để nguyên thần có thể tu hành ở nơi trần thế. Trút bỏ xác phàm, đắc Đạo thăng thiên, ấy mới là mục đích chân chính để làm người…

Hồng Liên

Chú thích:

  • [1] Câu này trong nguyên tác viết: "金蟬脫殼化西涵" (Kim Thiền thoát xác hóa tây hàm).
  • [2] Hai câu cuối trong nguyên tác viết: "致使金蟬重脫殼,故令玄奘再修行" (Trí sử Kim Thiền trọng thoát xác, Cố lệnh Huyền Trang tái tu hành).

Có thể bạn quan tâm :


  • Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 5) – Vì sao Đường Tăng nói: 'Thân người khó được, Trung thổ khó sinh, Chính Pháp khó gặp'?

  • Giang hồ 'bẻ kiếm' đi tìm đạo, thành người tu luyện giữa đời thường

  • Tiến sĩ Canada mắc bệnh hiếm gặp phục hồi kỳ diệu chỉ sau vài tháng bất ngờ tìm thấy con đường tu luyện tâm linh

Comments

Popular posts from this blog

Những thông điệp sâu sắc Nguyễn Du gửi gắm qua Truyện Kiều (P.3): Trời đất vô tình đâu có chiều theo cái tình của con người mà vận tác?

Người xưa coi văn chương là một hành vi sáng tạo rất thiêng liêng. Văn là để chuyên chở Đạo Đức. Nó như kim chỉ nam chỉ đạo những con chữ sinh thành dưới ngọn bút lông. Vì thế, văn chương là cái Chí, là quan niệm nghiêm túc về cuộc sống. Tài năng nhà thơ nhà văn có khả năng định hướng cho cả một cộng đồng đi vào cái Đẹp của Đạo đức cao cả. Chúng ta hãy chiêm nghiệm điều đó qua Truyện Kiều của Nguyễn Du.  Xem thêm: Phần 1  và  Phần 2 Trong đôi mắt nhiều tiên cảm về thân phận, nàng Kiều thấy điều chẳng lành trong lần đầu tiên chơi xuân. Đó là cảnh của một ngày trong mùa xuân muộn, rất riêng, rất đặc trưng về một ngày chơi xuân của 3 chị em Thúy Kiều. Ngày xuân con én đưa thoi …(Ảnh: pinterest.com) Ở đây, ngày xuân có sáng, có chiều, có lễ, có hội, có 3 chị em, có cái nhìn và tâm sự rất riêng tư của Kiều, có Kim Trọng, có Đạm Tiên, có đêm xuân thổn thức, có sáng hôm sau chim hót xa gần và có cả bông hoa liễu " b...

Tứ đại cổ điển hí kịch (P.2): Mẫu Đơn Đình, thiên tình sử lãng mạn thiên thu

Trong bốn vở kịch cổ điển của làng kinh kịch Trung Hoa, có hai vở nói về tình yêu và hôn nhân trong thời xưa. Nếu như đánh giá Tây Sương Kí là một vở kịch có giá trị về chủ đề này thì người ta dường như chỉ dùng nó là đòn bẩy để tô vẽ lên một vở kịch được coi là lu mờ đi cả Tây Sương Kí, đó chính là vở Mẫu Đơn Đình. Mẫu Đơn Đình hay còn gọi là Hoàn hồn ký hay Đỗ Lệ Nương mộ sắc hoàn hồn ký là một trong những vở kịch nổi tiếng trong lịch sử sân khấu Trung Quốc, do nhà soạn kịch nổi tiếng thời kỳ nhà Minh là Thang Hiển Tổ viết năm 1598 mà đến nay vẫn được người Trung Hoa nghiên cứu dựng lại và diễn xướng. Tại sao Mẫu Đơn Đình lại làm lu mờ đi Tây Sương Kí, phải chăng tính li kì và cảnh giới cũng như thông điệp của Mẫu Đơn Đình mang theo là giá trị to lớn choáng ngợp đi Tây Sương hí kịch? Mẫu Đơn Đình cũng là một thiên tình sử lãng mạn thiên thu Đỗ Lệ Nương là con gái độc nhất của quan thái thú Nam An Đỗ Bảo. Nàng vừa xinh đẹp, dịu hiền, vừa thông minh, nhanh ý. Ngay từ nhỏ được đọ...

Chúng ta đã nghe nhiều về các bản ‘sonata’. Vậy sonata thực ra là gì?

Khi thưởng thức âm nhạc kinh điển, ta thường được nghe giới thiệu về những bản sonata. Vậy sonata cụ thể là gì? Sonata Pathetique – Bản sonata "Cảm động" của Ludwig Van Beethoven Sonata chính là một cơ cấu nhạc dành cho một nhạc cụ độc tấu (thường là đàn phím) hoặc có khi là hai nhạc cụ cùng chơi (violon và piano chẳng hạn), trong đó chứa đựng nhiều chủ đề, nhiều hình tượng âm nhạc tương phản. Có từ thời Baroque (tiền cổ điển 1600-1750) và càng về sau càng trở nên phong phú. Kế thừa các bậc tiền bối, Hayđơn, Mozart, Bethoven đã thể hiện một cách sáng tạo muôn hình muôn vẻ trong nhiều kiệt tác. Thông thường hình thức Sonata gồm 3 phần: – Phần trình bày : gồm có Mở đầu – Chính – Nối – Phụ -Kết – Phần phát triển : Đây là trung tâm kịch tính của hình thức sonata, những hình tượng tương phản xung đột, sự xuất hiện các chủ đề của phần trình bày với một dạng khác. – Phần tái hiện : Nhắc lại những chủ đề nguyên dạng, trở về điệu tính chủ. Sau đó là Coda. Song song với h...